XXXIV
Vào ngày tròn một
năm kể từ khi cô nương của tôi trở thành người muôn thuở, tôi ngồi nhớ về nàng
và tôi vẽ thiên thần trên tấm bảng. Khi rời mắt khỏi hình vẽ, tôi nhìn thấy
nhiều người. Họ nhìn bức tranh của tôi. Và như sau đó tôi được biết thì họ đã ở
đó một thời gian trước khi tôi nhận ra họ.
Khi nhìn thấy họ, tôi đứng dậy chào hỏi và nói với họ: “Tôi
mải chìm đắm trong suy nghĩ”. Khi họ đi, tôi trở lại với công việc của mình và
lại tiếp tục vẽ thiên thần. Khi làm việc, trong đầu tôi nảy ra những câu thơ về
những người vừa ghé thăm tôi. Tôi viết bài sonetto,
bắt đầu bằng: “Era venuta: Nàng đi vào ký ức của tôi..”. Bài thơ này có
hai sự mở đầu, và tôi chia nó với cả hai sự mở đầu.
Theo sự mở đầu thứ
nhất, bài thơ có ba phần: ở phần một tôi nói rằng cô nương đã ở đây, trong ký
ức của tôi; ở phần hai tôi nói rằng Tình yêu ở trong tôi; ở phần ba tôi nói về
sự tác động của chúa tể đối với tôi. Phần hai bắt đầu như vậy: “Amor, che:
Nghe tiếng gọi..”; phần ba bằng những lời: “Piangendo uscivan for:
..than thở thành lời”.
Phần này có hai
phần nhỏ: thứ nhất, là tất cả những thổn thức của tôi; thứ hai, một số này có
những lời khác nhau. Phần hai bắt đầu bằng: “Ma quei: Sẽ nói rằng..”.
Còn với sự mở đầu
thứ hai, bài thơ cũng chia ra như vậy, ngoại trừ một điều tôi nói đến sự xuất
hiện của cô nương trong ký ức của tôi, là điều không có ở sự mở đầu thứ nhất.
Sự mở đầu thứ nhất
Nàng đi vào ký ức của tôi
Bậc nương nương hằng phúc
Nơi ngự Đức Chúa Trời cao nhất
Và Đức Mẹ Maria ở trên trời.
Sự mở đầu thứ hai
Nàng đi vào ký ức của tôi
Tình yêu đến giờ vẫn khóc
Về nàng trong phút giây hạnh phúc
Vào một bóng hình nhìn ngắm không thôi.
Nghe tiếng gọi trong giấc ngủ mơ màng
Tình thức dậy trong con tim hoang vắng
Tiếng nức nở: “Hãy đến cùng thần thánh!”
Rồi thở dài và vội biến đi nhanh.
Chúng bay nhanh và than thở thành lời
Nghe rõ ràng và lặp đi lặp lại
Dòng lệ buồn trong đôi mắt đầy vơi.
Nếu ai còn đau khổ hơn thế này
Sẽ nói rằng: “Ô, linh hồn cao quí
Giữa trời xanh
ngươi thức dậy hôm nay!”
XXXV
Một thời gian tôi
thả hồn mình đắm chìm trong những hoài niệm về quá khứ. Một ý nghĩ đau thương
rằng gương mặt tôi quá rầu rĩ trước bạn bè. Khi hiểu được tình trạng đau khổ
này tôi ngước mắt nhìn xem có ai nhìn tôi không.
Tôi thấy một cô
nương cao thượng trẻ đẹp nhìn từ cửa sổ với một vẻ thương hại làm người ta ngỡ
rằng tất cả mọi sự thương hại trên đời này đều tập trung vào đó.
Thấy sự thương hại
của người khác, cảm nhận được nỗi đau của họ, dường như thương cho bản thân
mình, tôi cảm thấy đôi mắt muốn tuôn dòng nước mắt. Nhưng sợ người khác nhìn
thấy, tôi tránh khỏi cô nương kia, tự nói với chính mình: “Không lẽ với lòng
thương hại của cô nương mà lại không có tình yêu cao thượng nhất ở đó”.
Bởi thế, tôi quyết
định viết bài sonetto về cô nương
này. Ý nghĩa thì đã rõ ràng. Bài sonetto
bắt đầu bằng: “Videro li occho mei”
Đôi mắt nhìn vào, khổ đau biết mấy
Em hiện ra trong gương mặt của mình
Em nhìn thấy vẻ đau khổ của anh
Anh tiếc thương vẻ trời sinh như vậy.
Anh hiểu ra từng hơi thở của em
Rằng cuộc đời anh bao trùm bóng tối
Và trong tim có một miền run rẩy
Anh không trao cho hết thảy buồn thương.
Chạy trốn em, anh cảm nhận được rằng
Con tim anh lại bồi hồi, thổn thức
Vì ánh mắt em chứa đầy quyền lực.
Và tâm hồn đau thương anh van vỉ
Với Tình yêu của người đẹp, tất nhiên
Người làm cho cuộc đời anh đau khổ.
XXXVI
Sau đấy, dù gặp cô
nương kia ở đâu thì tôi vẫn thấy trên gương mặt nàng một màu tái nhợt của lòng
thương xót – có vẻ như màu tình yêu ở trên đôi má nàng. Cô nương này ít khi
nhắc với tôi về cô nương cao thượng nhất của tôi, người hợp với màu này. Đôi
khi không còn sức để khóc nữa hay để xua đi nỗi buồn thì tôi lại tìm gặp cô
nương rủ lòng thương kia, có vẻ như nàng bằng dáng vẻ của mình gợi ra những
giọt nước mắt từ đôi mắt của tôi. Bởi thế, tôi đã viết bài thơ về nàng sau đây,
bài sonetto bắt đầu như vậy: “Color
d’amore: Chẳng màu Tình yêu..”. Bài thơ có ý nghĩa đã rõ ràng mà không cần
chia ra các phần.
Chẳng màu Tình yêu, không dấu hiệu đau thương
Trên mặt em chưa bao giờ như vậy
Chưa thể hiện vẻ đầy đủ lạ thường
Khi đôi mắt nhìn, thổn thức nhường ấy.
Cũng giống vậy, khi những lời thú nhận
Từ đôi môi anh cứ thế ào tuôn
Anh hình dung nỗi sợ hãi, nỗi buồn
Rằng trái tim vỡ tung vì đau đớn.
Đôi mắt anh bơ phờ như hờ nhắm
Không thể nào rời ánh mắt không nhìn
Mắt chỉ mong trút hết nỗi buồn thương
Em trao cho mắt ít nhiều sức mạnh
Và khát khao cho dòng lệ ào tuôn
Nhưng mà khóc trước mặt em không dám.
XXXVII
Vẻ ngoài của cô
nương này thực sự gây cho tôi một ấn tượng, đôi mắt tôi cảm thấy thích thú mỗi
khi nhìn thấy nàng. Điều này làm tôi buồn và tôi coi đó là điều thấp hèn. Nhiều
lần tôi quở trách đôi mắt của mình nông nổi và tôi nói trong ý nghĩ: “Ngươi
từng làm cho những ai nhìn thấy nỗi đau khổ của ngươi phải khóc, thế mà giờ đây
ngươi khao khát quên điều này vì một cô nương mà ngươi nhìn thấy; nàng nhìn
ngươi chỉ vì thương xót cho cô nương của ngươi, người mà ngươi thường khóc lóc;
ngươi cứ tiếp tục hành động như mong muốn, ta sẽ thường xuyên nhắc đến, hỡi đôi
con mắt nguyền rủa, hãy nhớ rằng cho đến khi chết đừng bao giờ cạn dòng nước
mắt”.
Tôi đã nói với đôi
mắt của mình như thế và những tiếng thổn thức lại không để tôi yên. Và để cho
trận đánh với chính mình không ai biết được, tôi đã viết trong bài sonetto về tình trạng khủng khiếp của
mình. Tôi viết bài thơ bắt đầu bằng: “L’amaro lagrimar: Dòng nước mắt
lại trào ra..”.
Bài thơ có hai
phần: ở phần một tôi nói với đôi mắt những gì mà con tim nói trong lòng tôi; ở
phần hai tôi khen mối nghi ngờ có thể, giải thích ai nói vậy. Phần này bắt đầu
bằng: “Così dice: Con tim nói vậy..”. Bài thơ này có thể chia ra các
phần, tuy nhiên điều này là không cần thiết vì ý nghĩa của nó đã rõ ràng từ
phần trước.
“Dòng nước mắt lại trào ra cay đắng
Đôi mắt tôi đằng đẵng đã bao ngày
Mắt làm cho thổn thức biết bao người
Vì nỗi buồn của em mắt đau đớn.
Nhưng anh hình dung: từ lâu hoài niệm
Em quên đi, anh không xứng điều này
Lòng cương quyết của mình, em không hay
Ca tụng con người mà em đau đớn.
Anh nghĩ suy cái điều em bận rộn
Anh đau buồn và lo sợ cho em
Khi đứng trước em gặp ánh mắt nhìn.
Bởi chưa bao giờ – trong phút lâm chung
Xin em đừng quên cái người đã chết!”
Con tim nói vậy – và tim thổn thức.
XXXVIII
Tôi lại cứ nhìn
thấy gương mặt của cô nương có lòng trắc ẩn và thường xuyên suy nghĩ về nàng
như một người yêu thích. “Cô nương cao thượng này – tôi suy nghĩ – trẻ trung,
khôn ngoan và xinh đẹp đã xuất hiện theo ước muốn của Tình yêu để cho đời ta có
sự ngơi nghỉ”.
Và tôi thường nghĩ
đến, con tim của tôi cảm nhận sâu sắc hơn điều này. Khi tôi đã sẵn sàng đồng ý
với điều này thì tôi lại đắm chìm vào suy nghĩ và tôi nói với chính mình: “Lạy
Chúa, ý nghĩ xấu hổ này muốn an ủi ta và muốn ngăn cản những ý nghĩ khác
chăng?” Sau đó, một ý nghĩ khác hiện ra và nói: “Ngươi đang ở trong tình trạng
đau khổ như vậy thì tại sao ngươi không muốn thoát khỏi nỗi đau thương? Tình
yêu xuất phát từ đôi mắt thương hại của cô nương”. Và tôi cảm thấy sảng khoái,
muốn thể hiện qua thơ. Tôi cảm thấy cần phải viết về những ý nghĩ này. Tôi viết
bài sonetto, bắt đầu bằng: “Gentil
pensero: Ý nghĩ dễ thương..”, và tôi nói rằng “gentile”, vì ý nghĩ này nói về cô nương cao thượng,
mặc dù ở những phần khác là những ý nghĩ thấp hèn.
Trong bài sonetto này tôi chia mình ra làm hai
phần khởi đầu, chia đôi những ý nghĩ của tôi. Tôi gọi phần thứ nhất là trái
tim, nghĩa là khát khao; phần khác – là tâm hồn, nghĩa là lý trí, và tôi thả
lòng theo cả phần này phần khác. Quả thực, ở bài sonetto trước tôi bảo vệ sự khát khao của con tim trước sự khát
khao của đôi mắt, thì ở bài này có vẻ như ngược lại. Bởi thế, tôi nói rằng ở
bài sonetto trước tôi hiểu con tim – là sự khát khao, vì khi đó sự khát khao
trong tôi mạnh mẽ hơn sự hồi tưởng về cô nương cao thượng nhất. Từ đó mà rõ
ràng một điều nói ra không trái ngược với điều khác.
Bài sonetto này có ba phần: ở phần một tôi
nói về cô nương này và tất cả mong muốn của tôi đối với nàng; ở phần hai – tâm
hồn, tức lý trí hướng về con tim, nghĩa là dục vọng; ở phần ba tôi đưa ra câu
trả lời của con tim cho tâm hồn. Phần hai bắt đầu như vậy: “L’anima dice:
Hồn bảo tim..”; phần ba: “Ei le responde: Tim trả lời..”
Ý nghĩ dễ thương nhắc đi nhắc lại
Chia sẻ niềm vui như vị khách quen
Về Tình yêu nhắc đến thật êm đềm
Rằng con tim nghe theo tình như vậy.
Hồn bảo tim: “Ở đây nghe giọng nói
Của ai đang an ủi nỗi buồn chăng?
Quả thực là có sức mạnh vô cùng
Để ý nghĩ lạc loài đem xua đuổi?”
Tim trả lời: “Ô, tâm hồn tăm tối
Đấy là linh hồn mới của Tình yêu
Đang vội vàng đem bổn phận đến đây
Linh hồn tự nhiên, quyền lực như vầy
Có nghĩa vụ với ánh nhìn thương hại
Vì đau khổ của ta mà mệt mỏi”.
XXXIX
Đến một ngày có
một hình ảnh rất mạnh mẽ hiện ra chống lại điều thù nghịch của lý trí. Tôi ngỡ
như trước mặt tôi Beatrice hiện ra trong bộ quần áo màu đỏ thắm như lần đầu
tiên tôi gặp nàng, và tôi cứ ngỡ rằng nàng ở độ tuổi thanh xuân như lần đầu
tiên mà tôi gặp. Khi đó tôi đắm chìm trong suy nghĩ về nàng theo sự thay đổi
của thời gian. Con tim tôi đau khổ hối hận vì những gì đã vây lấy trong nhiều
ngày. Khi những ý nghĩ này vơi đi, tất cả những ý nghĩ của tôi lại hướng về
Beatrice.
Và tôi nói rằng,
kể từ ngày tôi bắt đầu suy nghĩ về nàng bằng tất cả con tim thì những thổn thức
luôn nhắc đến cái tên Beatrice, và rằng nàng đã ra đi ra sao. Đôi khi xảy ra là
tôi quên nàng và nơi mà tôi đang ở. Điều này làm cho tôi muốn bật khóc.
Vì thường hay khóc
trong một thời gian dài đã hình thành một quầng màu đỏ thẩm quanh đôi mắt của
tôi như ở những người thường chịu những nỗi đau khổ quá mức. Những ý nghĩ nông
nổi của đôi mắt đã bị trừng phạt nên từ đó chúng không còn nhìn cô nương, người
có thể kéo chúng trở lại tình trạng như trước đây.
Mong muốn thể hiện điều này, tôi quyết định viết bài sonetto nói về những điều mà tôi vừa
phân tích. Tôi viết: “Lasso! per forza di molti suspiri: Than ôi! Trước
sức mạnh của hơi thở dài..”, trong đó tôi nói lời “than ôi” về điều xấu hổ mà
đôi mắt của tôi đã lầm lẫn. Bài sonetto
này tôi không chia ra các phần, điều này đã không cần thiết.
Than ôi! Trước sức mạnh của hơi thở dài
Một ý nghĩ trong lòng tôi dâng ngập
Đôi mắt hãy ngoan, nghĩ đến điều này:
Hãy tránh xa khỏi cái miền trực giác.
Và ngỡ rằng: mắt – hai điều khao khát
Được buồn đau, than khóc những ngày qua
Khắp mọi nơi nước mắt vẫn nhạt nhoà
Tình khoác lên mắt vòng hoa đau xót.
Mắt khó nhọc chất đầy trong con tim
Bằng thổn thức và rầu rĩ của mình
Rằng trong đó nỗi buồn đang dâng ngập
Rồi sau đó, không gì an ủi được
Mắt giữ cái tên người đẹp ngọt ngào
Và biết rằng nàng đã vội đi mau.
XL
Sau những phiền
muộn kia, thời gian này có nhiều người đi hành hương để được thấy hình ảnh mà
Giêsu Christ để lại, được chứng kiến vẻ mặt tuyệt đẹp của Ngài mà giờ đây cô
nương của tôi đang chiêm ngưỡng trong sự vinh quang, những người hành hương đi
qua con đường xuyên qua thành phố, nơi cô nương cao thượng nhất đã sinh ra, lớn
lên và chết ở đó.
Những người hành
hương bước đi, tôi ngỡ như họ đắm chìm trong suy tưởng. Suy nghĩ về họ, tôi nói
với mình: “Ta cứ ngỡ rằng những người hành hương đến từ nơi xa xôi thì chắc gì
đã nghe được những câu chuyện về cô nương và họ không biết gì về nàng. Họ quan
tâm đến những chuyện khác, mà không phải những gì đang xảy ra ở đây. Có lẽ họ
nghĩ về những người bạn của mình mà ta không biết”.
Sau đó, tôi nói
với chính mình: “Nếu như họ là những người ở gần đây thì trên gương mặt có thể
nhận thấy vẻ bối rối, khi họ có mặt ở thành phố đau buồn”. Sau đó, tôi lại nói
với chính mình: “Giá như ta có thể giữ được họ lại dù trong chốc lát thì ta đã
có thể khơi ra dòng lệ trước khi họ từ giã thành phố này, vì ta sẽ nói những
lời làm cho họ phải bật khóc”.
Sau
đó, khi họ biến mất khỏi ánh mắt của tôi, tôi quyết định viết bài sonetto để diễn tả những điều tôi đã nói
với chính mình. Và để gợi ra lòng thương cảm, tôi viết bài thơ có vẻ như là
hướng tới những người hành hương. Bài thơ bắt đầu bằng: “Deh peregrini che
pensosi andante: Những kẻ hành hương bước đi đầu cúi xuống..”.
Tôi nói:
“những người hành hương - peregrini” theo nghĩa rộng của từ này. Ta biết rằng
“những người hành hương” có cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, “những
người hành hương” là những ai ở ngoài xứ sở của mình; theo nghĩa hẹp “những
người hành hương” là những ai đến đền Thánh Gia-cốp (Iacopo) hoặc từ đó trở về.
Từ đó mà có ba cách gọi đối với những người đi xa để phụng sự Đấng Tối Cao: họ
được gọi là “palmieri – palmer”, bởi vì họ đi xa và thường xuyên mang về những cành lá cọ, họ được gọi
là “những người hành hương” khi họ đi về xứ Galicia, bởi vì mộ của Thánh
Gia-cốp ở xa quê hương họ hơn là những Thánh tông đồ khác; họ được gọi là “romei”, khi đi về Roma – và những ai mà tôi gọi là
“những người hành hương” cũng đi về nơi đó.
Bài sonetto này
tôi không chia ra các phần vì rằng tất cả đã rõ ràng:
Những kẻ hành hương bước đi đầu cúi xuống
Thương tiếc những ai không ở nơi này
Từ xứ lạ dấu vết có mang về đây
Có cho người khác nhận ra hình dáng?
Vì điều chi các người tuôn nước mắt
Khi quay về bắt gặp cảnh đau thương?
Có nhìn ra dấu hiệu nỗi đau buồn
Có hiểu thấu chăng những điều mất mát?
Giá những lời tôi bay đến các người
Thì sẽ hiểu ra nỗi đau đớn của tôi
Rằng ở đây kết lại trong nước mắt:
Tôn thờ nàng Beatrice của tôi!
Và câu chuyện kết thúc ở đây
Ai nghe thấy đều muốn oà lên khóc!
XLI
Sau
đó hai cô nương cao thượng yêu cầu tôi gửi cho họ những dòng thơ này. Suy nghĩ
về vẻ cao thượng của họ, tôi quyết định gửi thơ cho họ và viết bài thơ mới để
gửi cùng những bài khác và để thực hiện tốt lời yêu cầu của họ. Tôi viết bài sonetto nói về trạng thái của tôi và
gửi cho họ cùng với những bài thơ khác bắt đầu bằng: ‘Venite a intender:
Hãy đến để mà nghe..”.
Bài sonetto tôi viết khi đó bắt đầu bằng: “Oltre
la spera: Trên hình cầu..” bao gồm năm phần. Ở phần thứ nhất tôi nói về ý
nghĩ tôi đi đâu, gọi tên của hành động. Ở phần thứ hai tôi nói rằng tại sao ý nghĩ
lên cao, nghĩa là ai dẫn lên đó. Ở phần ba tôi nói rằng thơ nhìn thấy gì, nhìn
thấy cô nương nào ở trên cao và tôi gọi là “hồn lãng du” vì lên cao, tựa như
người du hành ở xa quê hương mình và ở lại đấy.
Ở
phần bốn – tôi nói rằng hồn nhìn thấy nàng với những phẩm chất mà tôi không
hiểu được, nghĩa là ý nghĩ của của tôi lên cao đến mức mà lý trí không nhận
biết được, rằng trí tuệ của ta có thái độ với những linh hồn cao thượng tương
tự như con mắt người yếu kém với mặt trời: chính điều này Nhà triết học nói đến
trong quyển Siêu hình thứ hai.
Ở
phần năm – tôi nói rằng dù không hiểu được sự vật mà ý nghĩ tôi hướng đến,
nghĩa là phẩm chất kỳ diệu nhưng tôi hiểu rằng tất cả những điều này là sự suy
ngẫm về cô nương của tôi vì tôi thường xuyên nghe tên nàng trong ý nghĩ, và ở
đoạn cuối của phần năm tôi nói ‘donna mie care: ôi những cô nương ơi” để
nói rằng tôi đang hướng về các cô nương.
Phần
hai bắt đầu bằng ‘intelligenza nova: một trí khôn rất mới..”; phần ba: ‘Quand´elli
è giunto: Trước sứ giả này..”; phần bốn ‘Vedela tal: Hồn nhìn ra..”;
phần năm: ‘So io che parla: Hồn đang nói về..”.
Có
thể chia ra các phần nhỏ hơn và giải thích một cách cặn kẽ hơn nhưng có thể
không cần chia ra như thế, bởi vậy tôi sẽ không phân chia tiếp.
Trên
hình cầu, sứ giả của con tim
Lượn vòng quanh, hơi thở tôi qua đấy:
Với nỗi buồn, một Trí khôn rất mới
Tình trao cho, đang vỗ cánh bay lên.
Trước sứ giả này, một giới hạn ước mong
Thấy người đẹp trong một niềm tôn kính
Trong tốt đẹp, trong huy hoàng xán lạn
Rằng hồn lãng du không thể không nhìn.
Hồn nhìn ra, lên tiếng, nhưng mà tôi
Không hiểu nghĩa của một lời láu lỉnh
Dù hồn tôi chăm chú nghe điều tiếng
Nhưng hiện ra: hồn đang nói về Người
Và hiểu ra, ôi những cô nương ơi.
XLII
Sau bài thơ này có một hình ảnh tuyệt diệu mà trong đó tôi
nhìn thấy những điều bắt buộc tôi quyết định không nói về con người cao thượng,
cho đến khi tôi chưa thể tường thuật lại một cách xứng đáng hơn. Và, để đạt
được điều này, tôi làm những gì có thể như chính nàng thực sự biết điều này. Vì
thế, nếu con người rất sống động ấy vui lòng, để cuộc đời tôi kéo dài thêm một
vài năm, tôi hy vọng được nói về nàng cái điều mà chưa bao giờ có ai từng nói
như vậy về một người phụ nữ.
Còn sau đấy, hẳn là Thượng Đế bao dung sẽ vui lòng, để linh
hồn tôi có thể bay lên và nhìn thấy vinh quang người Trinh Nữ của mình, là
người tôi mang ơn, có tên Beatrice, người mà ai có vinh hạnh được ngắm nhìn
gương mặt Nàng, qui est per omnia saecula
benedictus: người đó đến trọn kiếp mang niềm ân huệ.
XXXIV
1. Vào ngày tròn một năm kể từ khi cô nương của
tôi trở thành người muôn thuở, tôi ngồi nhớ về nàng và tôi vẽ thiên thần trên
tấm bảng… – Theo nhà nhân văn Leonardo Bruni (1370 – 1444), tác giả của
cuốn sách về “Cuộc đời Dante” thì
Dante là người vẽ rất giỏi.
XXXV
1. Tôi thấy một cô nương cao thượng trẻ đẹp
nhìn từ cửa sổ với một vẻ thương hại…– Cô nương trẻ đẹp được Dante gọi là
“cô nương cao thượng” (donna gentile) và “cô nương thương hại” (donna pietosa).
Cô nương này đã làm phân tán ý nghĩ của Dante về Beatrice mà rồi sau đấy Dante
đã hối hận.
XXXIX
1. Con tim
tôi đau khổ hối hận vì những gì đã vây lấy trong nhiều ngày. Khi những ý nghĩ
này vơi đi, tất cả những ý nghĩ của tôi lại hướng về Beatrice. – Sự say mê
với “donna gentile” vây lấy Dante một thời gian nhưng cuối cùng lại trở về với
Beatrice trong mọi ý nghĩ và Dante bắt đầu viết “Thần Khúc”.
XL
1… thời gian này có nhiều người đi hành hương
để được thấy hình ảnh mà Giê-su Christ để lại… – Theo truyền thuyết thì
khuôn mặt của Jesus Christ còn in dấu trên chiếc khăn mà bà Veronica ở thành
Jerusalem trao cho khi trên đường đi đến Golgotha.
2… con đường xuyên qua thành phố, nơi cô nương
cao thượng nhất đã sinh ra, lớn lên và chết ở đó… – Thành phố này là
Firenze, Dante đã cố tình không gọi tên thành phố này.
3… họ đi về xứ Galicia… –
Đền thờ Thánh Giacốp ở Galicia (Tây Ban Nha). Dân Firenze thường hành hương về
thành Jerusalem, sau đó đi về mộ Giacốp (Iacopo) ở Galicia.
XLI
1…
Nhà triết học nói đến trong quyển Siêu
hình thứ hai – Đây là quyển “Siêu hình II” của Aristotle.
2… Không hiểu nghĩa của một lời láu lỉnh –
Câu thơ này mâu thuẫn với câu cuối cùng: Và
hiểu ra, ôi những cô nương ơi. Dante muốn nói rằng không hiểu theo nghĩa
đen mà hiểu theo ý nghĩa ẩn giấu ở bên trong.
XLII
1. Sau bài thơ này có một hình ảnh tuyệt diệu
mà trong đó tôi nhìn thấy những điều bắt buộc tôi quyết định không nói về con
người cao thượng, cho đến khi tôi chưa thể tường thuật lại một cách xứng đáng
hơn…. – Dante nói về ý định viết tác phẩm “Thần Khúc” trong tương lai, hơn 20 năm sau đấy.
2… qui est per omnia saecula benedictus – Cách kết thúc này Dante theo cách mà nhà
thần học, nhà triết học Tômát Đa Canh (Tommaso d'Aquino) (1225 – 1274), dùng để kết
thúc các phần trong tác phẩm “Summa
Theologica” bất hủ.